Công Ty Thái Nam Việt Chuyên May Bán, Cho Thuê Trang Phục Dân Tộc Tây Nguyên Với Nhiều Kiểu Mẫu Trang Phục Dân Tộc Khác Nhau : Êđe, H''mông, Bana, Tày, Nùng,.Đặt Theo Yêu Cầu, Số Lượng, Kích Thước Của Quý Khách Hàng, Có Nhiều Mẫu Mã, Luôn Được Đổi. Ngân 25/40 Sơn Kỳ, P
v Dân tộc Nùng: (353.000), thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái, sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. v Dao (237.000), cư trú chủ yếu dọc biên giới Việt- Trung, Việt- Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam.
Thăm nhà trình tường ở lạng sơn bằng xe 16 chỗ giá cực rẻ #3. 04/12/2021| 47 views. dựng bằng đất sét với những nét kiến trúc độc đáo của người miền cao mà chủ yếu là dân tộc Tày - Nùng. Còn chần chờ gì nữa, hãy dành ra vài ngày nghỉ để thư giãn và khám phá
Bài thuốc ngâm rượu bổ thận tráng dương của dân tộc Tày nùng Lạng Sơn. 5.00 trên 5 dựa trên 2 đánh giá của khách hàng. 1.350.000 ₫ 1.200.000₫. Bài thuốc ngâm rượu bổ thận tráng dương là một giải pháp tăng cường sinh lý nam. Rượu thuốc giúp điều hòa khí huyết, bổ
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới có đông đồng bào dân tộc thiểu số cùng sinh sống; hiện tỉnh Lạng Sơn có trên 656 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm gần 84% dân số toàn tỉnh), trong đó có hai dân tộc chiếm tỷ lệ cao là Nùng (43,19%) và Tày (34,58%).
. Trang phục Dao Lù Gang ở Mẫu Sơn, Lạng SơnLạng Sơn có nhiều dân tộc anh em Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông… Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang bản sắc đặc trưng của từng dân nhiên, một thực trạng chung hiện nay, do sự phát triển nhanh của xã hội, sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc đã phần nào ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thị hiếu thẩm mỹ, một bộ phận không nhỏ người DTTS đã thay đổi thói quen mặc trang phục truyền thống bằng trang phục phổ thông, đặc biệt là ở lớp trẻ. Đặc biệt hiện nay, các làng nghề dệt thổ cẩm còn rất ít, các nghệ nhân biết dệt và may trang phục truyền thống ngày càng mai một; trang phục truyền thống bị pha tạp nhiều cả về chất liệu và kiểu dáng, khó phân biệt được trang phục của dân tộc nào…Trước thực trạng đó, ngày 18/1/2019, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã có Quyết định số 209 về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Triển khai thực hiện đề án trên, UBND tỉnh Lạng Sơn đã có Kế hoạch số 117/KH-UBND, ngày 3/7/2019 về việc thực hiện “Đề án bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Định kỳ hằng năm, Sở VHTT&DL đã triển khai thực hiện bằng các chương trình, hoạt động cụ thể. Trong đó, việc tổ chức hội nghị, hội thảo là một trong những bước thu thập, tổng hợp, công bố các tư liệu, tài liệu, kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ nhân, chủ thể văn hóa. Từ đó nhận diện, đánh giá một cách đồng bộ, thống nhất, toàn diện các thành tố liên quan đến trang phục truyền thống của các DTTS Việt Nam trên địa bàn phục của phụ nữ dân tộc Nùng Lạng SơnTại Hội thảo đã có gần 30 tham luận của các đại biểu là nhà quản lý văn hóa, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa trong và ngoài tỉnh Lạng Sơn đóng góp ý kiến tập trung vào hai chủ đề những biến đối của trang phục các DTTS hiện nay - nguyên nhân, tác động và ảnh hưởng; báo chí Lạng Sơn với việc lan tỏa giá trị trang phục truyền thống các DTTS; bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị văn hóa trong trang phục truyền thống gắn với phát triển du lịch ở Lạng Sơn; tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức, hành động của cộng đồng về ý nghĩa, giá trị của công tác bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống…Hội thảo là cơ sở để Sở VHTT&DL tỉnh Lạng Sơn tiếp tục tham mưu đề xuất phương hướng, giải pháp bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trên địa bàn tỉnh gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương.
Dân tộc Nùng có tỷ lệ 42,9% dân số tỉnh Lạng Sơn, là dân tộc có tỷ lệ cao nhất, sinh sống khắp tỉnh. Hiện ở Lạng Sơn có 3 nhóm dân tộc Nùng gồm Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng Phàn Slình Nùng Phàn Slình Cúm Cọt, Nùng Phàn Slình Hua Lài và Nùng Phàn Slình áo dài. Mỗi nhóm đều có sự trang trí trên trang phục khác nhau, ví dụ như dân tộc Nùng Phàn Slình thường có những đường chỉ nổi và thêu sặc sỡ phần cổ và phần vạt áo, nhưng đối với dân tộc Nùng Cháo trang phục lại được thêu với phần chỉ chìm kín đáo. Đa phần trang phục của dân tộc Nùng thiên về tạo dáng với phần thân áo ngắn được xẻ tà và quần may rộng rãi. Ngoài ra, trên trang phục của phụ nữ Nùng còn phải kể tới một số đồ trang sức làm bằng kim loại đeo trên người như vòng tay, vòng cổ, hoa tai…Trang phục nam của các nhánh dân tộc Nùng cơ bản là giống nhau. Kiểu dáng áo ngắn, may sát người, tay áo dài và khá rộng, cổ áo khoét tròn, áo có 7 cúc tiếng Nùng gọi là chất kháu và thường có 2 túi. Màu sắc chủ đạo là màu chàm, đen. Quần được cắt may theo kiểu chéo gọi là tải dáng, ống quần rộng, đai quần được giữ bằng chun. Bộ trang phục của người Nùng Phàn Slình Cúm Cọt được làm từ vải nhuộm chàm, ít hoa văn. Để bộ trang phục của mình nổi bật, Người phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thêu chỉ màu và các hạt bạc nhỏ lên chiếc khăn đội đầu. Phụ nữ Nùng Phàn Slình Cúm Cọt thường mặc áo 5 thân màu chàm bên ngoài, bên trong sẽ mặc áo kẻ xanh hoặc kẻ đỏ, cổ áo có đính tua chỉ màu xanh, phần tua chỉ này sẽ được lộ ra bên ngoài khi mặc để tạo điểm nhấn cho chiếc áo màu chàm. Quần thường rộng khổ, gấu quần không thêu thùa, quần đũng chân què, cặp lá tọa. Khi mặc quấn dây lưng quanh bụng, hai đầu dắt mối ở hai bên hông. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Cúm Cọt Tên gọi Nùng Phàn Slình Hua Lài nghĩa là Nùng Phàn Slình Đầu Chấm Trong tiếng Nùng, “Hua” nghĩa là “Đầu”, “Lài” nghĩa là “Chấm”. Tên gọi này được bắt nguồn từ chiếc khăn đội đầu của người phụ nữ Nùng. Trên nền khăn màu chàm, người phụ nữ thêu những hạt màu trắng theo hàng tạo nên những đốm nhỏ nổi bật. Mỗi lần đội lên đầu, người phụ nữ được ví như đang đội trên đầu một bầu trời sao. Áo phụ nữ thường 4 thân hoặc 5 thân màu chàm. Áo ngắn được may rộng cả phần thân và tay, giúp người mặc thoải mái hơn trong đời sống sinh hoạt hằng ngày hoặc khi lao động sản xuất. Cổ tay áo và phía trước ngực được đắp thêm một miếng vải khác màu tạo nên nét đặc sắc cho bộ trang phục. Quần của phụ nữ may kiểu đũng chéo chân què, cạp lá tọa. Khi mặc, dùng giải rút luồn vào phần cạp quần và buộc thắt lại. Ngày nay, quần đũng chéo dần được thay thế bằng quần lụa hoặc vải sa-tin gấp nếp 2 ống tạo đường nét mềm mại hơn. Phụ nữ dân tộc Nùng Phàn Slình Hua Lài Sau khi dệt những mảnh vải bằng khung cửi gỗ, người dân tộc Nùng lấy lá và thân cây chàm về ngâm vào chum nước khoảng một tháng cho đến khi nhàu nát. Sau đó lọc lấy nước rồi trộn thêm một ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát tạo thành hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Xưa kia, Việc thêu thùa với con gái người Nùng rất được coi trọng. Nhìn vào từng đường kim mũi chỉ có thể biết được đâu là cô gái khéo léo, đảm đang. Khi về nhà chồng họ sẽ mang theo chăn, gối tự làm và coi đó như “của hồi môn” cho hạnh phúc lứa đôi. Họa tiết thổ cẩm được phối hợp giữa nhiều màu chỉ, thêu riêng từng màu. Tất cả họa tiết thổ cẩm đều được thêu tay trên nền vải chàm truyền thống. Đó là sự cách điệu họa tiết hình hoa lá, mặt trời... Trên những chiếc áo chàm, phần khuy áo được làm thủ công, đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất. Phải tốn hơn 3 ngày mới khâu xong hàng khuy áo đều đặn, đẹp mắt. Tất cả họa tiết thổ cẩm được thêu trên nền vải chàm, họa tiết đối xứng. Ngày nay, dù cuộc sống hiện đại và bận rộn hơn trước nhưng người dân tộc Nùng ở một số huyện trên địa bàn tỉnh vẫn mặc trang phục truyền thống trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là cách để gìn giữ, bảo tồn những nét đẹp trong văn hóa và trang phục của người dân tộc Nùng. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Lạng Sơn
NDO - Dân tộc Nùng là một trong những sắc dân có dân số đông ở Việt Nam, sinh sống phần lớn ở các tỉnh miền núi phía bắc. 1. Nguồn gốc lịch sử Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. 2. Dân số Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, người Nùng có người. Trong đó, có nam và nữ. 3. Ngôn ngữ Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái ngữ hệ Thái – Kađai. 4. Phân bố địa lý Dân tộc Nùng sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái. 5. Đặc điểm chính Nhà ở Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của dân tộc Nùng là ngôi nhà sàn, lợp ngói máng, có ba tầng sử dụng. Tầng 1 là gầm sàn dành cho gia cầm, gia súc, công cụ sản xuất; tầng 2 là sàn dành cho người ở và các đồ dùng sinh hoạt; tầng 3 là gác, làm kho chứa lương thực, các thứ khác được bảo quản ở nơi khô ráo. Phía trước nhà có sàn phơi. Ở một số vùng, người Nùng làm nhà trình tường. Trong nhà ở của người Nùng, bếp không chỉ để nấu ăn, mà còn để sưởi ấm, nhất là mùa đông giá lạnh. Người Nùng trong trang phục Then.Ảnh KHIẾU MINH • Trang phục Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông. Phụ nữ Nùng đội khăn vuông, chít kiểu mỏ quạ. Nam giới Nùng đội mũ, nhất là khi tiến hành các nghi lễ mang tính tâm linh. • Ẩm thực Người Nùng cũng ăn cơm gạo tẻ, ăn xôi và chế biến nhiều món ăn từ gạo tẻ và gạo nếp. Từ gạo tẻ, đồng bào làm cao quyển, cao xằng, từ gạo nếp chế biến xôi màu tím, đen, đỏ, vàng, xôi trám đen, xôi trứng kiến; chế biến thành các loại bánh. Ngoài các món ăn thông thường, người Nùng có một số món ăn đặc sản gắn với các dịp lễ tiết. Vào dịp tết Nguyên đán, người Nùng hay mổ gà trống thiến, gói bánh chưng loại bánh dài. Tết cuối tháng Giêng, đồng bào hay làm bánh ngải bánh dày với lá ngải cứu non... Ngày cưới, ngày sinh nhật nhất định phải có món lợn quay nhồi lá mắc mật. • Tôn giáo, tín ngưỡng Người Nùng tin theo tín ngưỡng đa thần là chính. Họ thường thờ ba đời bố mẹ, ông bà, cụ. Thờ cúng thần linh được thực hiện thông qua các lễ hội lùng tùng, cầu mùa. Trong cách thờ cúng cũng như các quan niệm ứng xử thể hiện dấu ấn của tam giáo Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Trong thực hành tín ngưỡng của dân tộc Nùng, nổi bật vai trò của các thầy cúng Tào, Mo, Pựt, Then. -Nghệ thuật Nét đặc trưng nhất trong văn nghệ dân gian của dân tộc Nùng là then. Đây là một nghi thức trình diễn vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính tâm linh. Thầy Then là người sáng tạo cả về lời ca và giai điệu. Cây đàn tính không có phím cho nên thầy Then hoàn toàn có thể ngẫu hứng tạo âm trên cây đàn. Mang yếu tố tâm linh khi gắn liền với nhiều nghi lễ cúng cầu, nhưng Then cũng hoàn toàn mang tính lễ hội khi gắn với những sự kiện trong cuộc đời con người, hoặc vào những dịp mừng năm mới…. Một loại dân ca rất đặc trưng khác của người Nùng là sli. Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè. Điều kiện kinh tế Về trồng trọt, người Nùng canh tác ở những vùng đất bằng phẳng và cả những nơi đất dốc, đất đồi, vườn quanh nhà. Lúa nước là cây trồng truyền thống của đồng bào Nùng. Việc trồng cây hồi và bán các sản phẩm từ hồi cũng mang lại thu nhập cho đồng bào. Ngoài ra, người Nùng còn trồng các loại cây có giá trị cao khác như trẩu, sở, thuốc lá, chè, mía, tre, trám, bông, chàm... Chăn nuôi có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế cũng như trong đời sống sinh hoạt của người Nùng. Vật nuôi phổ biến là trâu, bò, ngựa, dê, lợn; gà, vịt, ngan, ngỗng; chó, mèo; ong, tằm, cá nuôi ở ao hoặc ngay ruộng lúa. Họ biết làm nhiều nghề thủ công dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nổi bật là nghề rèn được duy trì và ngày càng phát triển, đặc biệt ở xã Phúc Sen huyện Quảng Hoà, Cao Bằng. Chợ ở vùng người Nùng phát triển, đặc biệt tập trung nhiều người Nùng đông nhất vào những ngày phiên truyền thống. Với địa bàn tụ cư truyền thống ở các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc, người Nùng có các hoạt động mậu biên sôi nổi. Không chỉ buôn bán tiểu ngạch, người Nùng còn tham gia làm bốc xếp, xe ôm, làm thuê trong sản xuất nông nghiệp. Các hoạt động này diễn ra cả ở nội địa và bên kia biên giới. Điều kiện giáo dục Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 90%; tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học 100,9%; ở cấp trung học cơ sở là 97,2%; ở cấp trung học phổ thông 73,4%. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình là 14,3%. Tỷ lệ trẻ em dân tộc Nùng trên 5 tuổi được đi học chiếm 99,6%. Nguồn - Các dân tộc ở Việt Nam Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật - Đặc trưng cơ bản của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê - Website Ủy ban Dân tộc - Kết quả điều tra thu thập thông tin về tình trạng kinh tế xã hội của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 Ủy ban Dân tộc Việt Nam – Tổng cục Thống kê
dân tộc nùng lạng sơn